Xem chi tiết - Trường Chính Trị Hậu Giang

admin

                                                                                                Võ Thanh Tùng - Khoa Lý luận cơ sở

  Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó xác định khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh một cách khái quát: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”[1]. Một trong những quan điểm nổi bật trong tư tưởng của Hồ Chí Minh đó là quan điểm về động lực của chủ nghĩa xã hội.

          1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về động lực của chủ nghĩa xã hội

            Hồ Chí Minh ý thức được rõ ràng giá trị của chủ nghĩa xã hội (CNXH) về mặt lý luận là quan trọng, nhưng vấn đề quan trọng hơn là tìm ra con đường thực hiện thành công mục tiêu đó. Để thực hiện những mục tiêu của CNXH, cần phát hiện những động lực và những điều kiện đảm bảo cho động lực đó thực sự trở thành sức mạnh thúc đẩy công cuộc xây dựng CNXH, nhất là những động lực bên trong, nguồn nội lực của chủ nghĩa xã hội.

          Theo Hồ Chí Minh, hệ thống động lực để xây dựng CNXH là: đoàn kết, đồng thuận, lợi ích, công bằng, dân chủ, khoa học kỹ thuật...Những động lực đó biểu hiện ở các phương diện: vật chất và tinh thần; nội sinh và ngoại sinh. Người khẳng định, động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là khối đi đoàn kết toàn dân tộc, nòng cốt là công – nông – trí thức. Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phải thường xuyên quan tâm đến lợi ích của tất cả các tầng lớp nhân dân; chăm lo bồi dưỡng sức dân, quan tâm đến lợi ích chính đáng, khơi dậy khát vọng cống hiến xây dựng đất nước, xây dựng CNXH của mỗi người dân.

          Nhìn nhận yếu tố con người là động lực của CNXH, hơn nữa là động lực quan trọng nhất, Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự kết hợp sức mạnh của mỗi cá nhân với xã hội (sức mạnh cộng đồng). Người cho rằng, không có chế độ xã hội nào coi trọng lợi ích chính đáng của cá nhân con người bằng chế độ xã hội chủ nghĩa.

          Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự đoàn kết cộng đồng, sức lao động sáng tạo của nhân dân là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng của CNXH. Nhà nước đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện chức năng quản lý xã hội, đưa sự nghiệp xây dựng CNXH đến thắng lợi. Người đặc biệt quan tâm đến hiệu lực của tổ chức, bộ máy, tính nghiêm minh của kỷ luật, pháp luật, sự trong sạch, liêm khiết của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ Trung ương đến địa phương. Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, gắn liền kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội. Cùng với khơi dậy, phát huy động lực về con người, về lợi ích vật chất và tinh thần của mỗi cá nhân, Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu của CNXH.

          Tất cả những nhân tố động lực nêu trên là những nguồn lực tiềm tàng của sự phát triển. Vậy làm thế nào để những khả năng, năng lực tiềm tàng đó trở thành sức mạnh và không ngừng phát triển? Hồ Chí Minh nhận thấy, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ động lực của CNXH. Ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng thành công CNXH, phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại (ngoại lực); tăng cường đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, phải sử dụng tốt những thành quả khoa học – kỹ thuật thế giới....

          Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất quan trọng. Chính vì thế, Người yêu cầu phải luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực cánh sinh là chính, nhưng luôn chú trọng sự giúp đỡ, hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng thành công CNXH trên cơ sở đảm bảo các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, chung sống hòa bình và phát triển.

          Đồng thời, Chũ tịch Hồ Chí Minh cũng lưu ý về các yếu tố mang tính rào cản trong sự nghiệp xây dựng CNXH, đây là các yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn năng lượng vốn có của CNXH, làm cho CNXH trở nên trì trệ, xơ cứng, không có sức hấp dẫn, đó là những “căn bệnh” giáo điều, tham ô, lãng phí, quan liêu... Người gọi đó là chủ nghĩa cá nhân “giặc nội xâm” cần phải hết sức cảnh giác và tiêu diệt nó.

          2. Những yêu cầu đặt ra về động lực chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

          Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới”[2]. Sức mạnh của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền của đất nước được giữ vững. Quan hệ đối ngoại rộng mở và đang đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày một nâng cao. Đó là tiền đề quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, phát triển sáng tạo, để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XIII còn khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”[3]

          Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng còn không ít hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước. Những năm qua, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước còn chậm, đời sống nhân dân ở nhiều nơi vẫn còn khó khăn; mô hình phát triển chưa đổi mới, sáng tạo; hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng chưa tạo được chuyển biến căn bản; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển; khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; văn hoá, xã hội, môi trường chưa được quan tâm đầy đủ, đúng mức; quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt bất cập; sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa được phát huy đầy đủ; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn một số hạn chế.

          Vì vậy, để tạo đột phá chiến lược hướng tới dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, năm 2030 và kỷ niệm 100 năm ngày thành lập nước, năm 2045; đưa nước ta thành nước phát triển, có thu nhập cao, củng cố cơ đồ, tăng cường vị thế đất nước phù hợp với xu thế phát triển của thời đại theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, đòi hỏi chúng ta phải tạo ra động lực mới cho sự phát triển đất nước. Bên cạnh đó, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với các đặc trưng mà Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011) đã đề ra, theo Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng “chúng ta phải: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.”[4]

          Trên cơ sở kế thừa và bổ sung quan điểm về những nhân tố tạo thành động lực của các kỳ Đại hội Đảng trước đó, Đại hội XIII của Đảng đã xác định: Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất. Với tư tưởng đó, động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xác định trên nhiều nội dung mới, cụ thể là:

          Một là, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

          Yêu nước là truyền thống quý báu, là hệ giá trị nổi bật của dân tộc Việt Nam. Truyền thống ấy là mẫu số chung, là nguồn lực nội sinh của cộng đồng dân tộc. Lòng yêu nước không chỉ là tư tưởng, tình cảm mà đã trở thành triết lý, là chủ nghĩa yêu nước, là ý chí, khí phách, quyết tâm và hành động của mỗi con người Việt Nam. Trong chiến tranh, yêu nước được thể hiện qua tinh thần quật khởi, ý chí quật cường bất khuất, chống lại sự xâm lược, đô hộ, đồng hóa của ngoại bang để bảo vệ độc lập dân tộc và biên cương của Tổ quốc. Ngày nay, yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường, vượt qua khó khăn, thử thách, hợp tác trong lao động, sản xuất; sáng tạo, hăng say để xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

          Để phát huy cao độ lòng yêu nước phải có tinh thần đoàn kết, chỉ có đoàn kết sâu, rộng chúng ta mới tập hợp được sức mạnh của quần chúng nhân dân trong xây dựng và kiến thiết đất nước. Trong Bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định đoàn kết đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam”[5]. Yêu cầu đặt ra đối với khơi dậy tinh thần yêu nước hiện nay là phải ra sức bảo vệ nền độc lập dân tộc của đất nước, bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân. Yêu nước là phải tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội phát triển bền vững, phải bài trừ, đấu tranh chống lại tất cả những gì đi ngược với lợi ích quốc gia, dân tộc, đi ngược với mục tiêu, động lực chủ nghĩa xã hội mà nước ta đang xây dựng.

          Hai là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ tạo động lực thúc đẩy sự phát triển đất nước.

          Trong bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khi coi khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hướng vào nguồn lực nội sinh, sức mạnh dân tộc là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, lòng tự tôn và tự hào dân tộc, nhân cách, đạo đức, trí tuệ, tâm hồn… những giá trị cốt lõi của văn hóa, con người Việt Nam. Đây là sức mạnh vĩ đại, nguồn năng lượng to lớn, sống động thúc đẩy sự phát triển của quốc gia - dân tộc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

          Về bản chất, văn hoá là những hoạt động sáng tạo của con người hướng tới những giá trị nhân văn, nhân bản, là khát vọng hướng tới cái chân, thiện, mỹ nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Nói tới văn hoá là nói tới con người, do vậy, phát huy vai trò của văn hoá trong phát triển chính là phát huy những năng lực, bản chất của con người. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hoá nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao.

           Với tư cách là động lực của sự phát triển, văn hoá khơi dậy sức sống, sức sáng tạo vươn tới các giá trị nhân văn, tiến bộ của con người. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là nhằm giải phóng và phát triển toàn diện con người. Vì vậy, bản chất của văn hoá thống nhất với mục tiêu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta hướng tới. Mang trong mình những giá trị truyền thống tốt đẹp, con người Việt Nam hoàn toàn có khả năng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng sáng tạo những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ tiên tiến, tri thức hiện đại trên thế giới để đổi mới sáng tạo vào quá trình phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc cho phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.

          Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) có những tác động to lớn đối với đời sống xã hội ở tất cả các quốc gia. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) làm thay đổi căn bản lĩnh vực sản xuất, tư duy, văn hóa, lối sống của con người. Cụ thể là: cách mạng công nghiệp thúc đẩy lực lượng sản xuất (thay đổi trình độ của người lao động, hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất, nhất là hạ tầng công nghệ thông tin), tạo ra sự thay đổi căn bản về khả năng kết nối giữa con người với công nghệ; khả năng minh bạch thông tin; khả năng giải quyết những công việc phức tạp với trình độ rất cao. Đây chính là những động lực không giới hạn thúc đẩy tăng trưởng những nước chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, sử dụng vốn, lao động phổ thông.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) làm thay đổi tư duy của con người, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; góp phần hình thành lối tư duy độc lập, sáng tạo, tăng cường tính logíc với những phán đoán ngày càng toàn diện hơn, khoa học hơn, qua đó thúc đẩy sự phát triển của tư duy khoa học. Điều này không chỉ hình thành và thúc đẩy khả năng làm việc hiệu quả, mà còn xác lập lối sống mới lành mạnh, tiến bộ và văn minh hơn cho con người. Sự phát triển của khoa học công nghệ đang cho phép thành lập các cộng đồng toàn cầu, vượt biên giới các quốc gia, tạo ra những giá trị chung cho nhân loại. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ trong thời đại hiện nay đã thúc đẩy quá trình phát triển ngày càng cao về cấu trúc, trình độ tổ chức của các thiết chế xã hội, tạo ra mạng lưới giao tiếp đa diện hơn cho con người. Mô hình quản lý của các chính phủ điện tử, quản trị thông minh thông qua công nghệ điện toán đám mây, đã góp phần thay đổi căn bản khả năng kết nối và tương tác xã hội, đem lại hiệu quả to lớn cho xã hội loài người....

          Có thể nói, cách mạng công nghiệp đang tác động mạnh mẽ và sâu sắc đối với mọi lĩnh vực của cuộc sống con người, tạo động lực cho sự phát triển và tiến bộ xã hội. Tuy vậy, chúng ta cần phải ý thức rằng, khoa học và công nghệ không thể tự nó trở thành động lực phát triển xã hội. Nó chỉ trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội khi được định hướng, quản lý nhằm đem lại lợi ích chung cho quần chúng nhân dân, vì mục tiêu phát triển, công bằng và tiến bộ xã hội. Nếu đi ngược mục tiêu đó, nó sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn xã hội, thúc đẩy sự phân hoá xã hội và cản trở sự phát triển bền vững của xã hội, thậm chí trở thành nhân tố cản trở sự tiến bộ xã hội. Do vậy, cùng với việc tiếp thu những thành tựu của khoa học công nghệ, thì việc đổi mới năng lực sáng tạo của con người là yếu tố căn bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

          Ba là, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất.

          Ngày này, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, chúng ta cần phát huy tất cả các yếu tố nội lực: đoàn kết, sự đồng thuận trong xã hội, sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, truyền thống dân tộc... cần phải phát huy các yếu tố ngoại lực như: tranh thủ thời cơ từ môi trường hợp tác quốc tế, tích cực hội nhập, mở rộng quan hệ ngoại giao đa phương, song phương, tham gia các tổ chức quốc tế... để tạo động lực mạnh mẽ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đặc biệt là chú trọng phát huy nguồn lực con người. Có thể nói con người là động lực quan trọng nhất của xã hội. Chủ nghĩa xã hội là phải hướng tới phát triển con người toàn diện, giải phóng con người, tạo ra sự công bằng, bình đẵng trong xã hội. Chủ nghĩa xã hội lấy con người làm mục tiêu để hướng đến. Bởi vì, mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là con người. Vấn đề đặt ra hiện nay, chúng ta cần quan tâm phát triển nguồn lực con người để tạo ra động lực trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cụ thể cần xây dựng con người Việt Nam có tri thức, đạo đức, ý thức tự giác cao, có tinh thần trách nhiệm đối bản thân và cộng đồng xã hội. Như Bác Hồ đã nói: muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa. Con người của xã hội xã hội chủ nghĩa là người có bản lĩnh, tri thức, đạo đức, phải là con người “mỗi người vì mọi người và mọi người vì mỗi người”.

          Tóm lại, việc xác định rõ những yêu cầu đặt ra về động lực chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có giá trị rất quan trọng, định hướng tốt cho việc quán triệt, triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu quả nghị quyết của Đảng, góp phần thực hiện có hiệu quả đường lối đổi mới. Đó là cơ sở để mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên làm tốt công tác tư tưởng, quán triệt, tuyên truyền sâu rộng Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đến quần chúng nhân dân, tuyên truyền, định hướng tốt những yêu cầu đặt ra về động lực chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Với trí tuệ, bản lĩnh chính trị vững vàng, đường lối lãnh đạo đúng đắn, kinh nghiệm lãnh đạo quý báu của Đảng, sự ủng hộ, chung sức, đồng lòng của nhân dân, khát vọng về một đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc và mục tiêu đưa nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ trở thành hiện thực. Có thể nói, việc xác định đúng động lực cơ bản không chỉ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với những mục tiêu chiến lược chúng ta đã đặt ra theo tinh thần Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, mà còn đảm bảo sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta./.

Tài liệu tham khảo:

          1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.

          2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, tập2, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội.

          3. Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG, H.2011, tr.88.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tập 1, tr.103.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tập 1, tr.104.

[4] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H.2022, tr.24-25.

[5] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H.2022, tr.102.